http://hoangsaparacels.blogspot.com/2019/04/hoa-van-ham-hq-472-trong-nhung-ngay.html#more

Đang là Hạm trưởng Hỏa Vận Hạm - HQ. 472, thì vào đầu tháng 2 năm 1975, tôi
nhận Lệnh thuyên chuyển về làm Thuyền trưởng cho hãng tàu
Vishipco Lines, và chờ vị Hạm Trưởng mới đến thay thế tôi; đến giờ
nầy tôi vẫn còn giữ LTC làm “kỷ vật”. Tiếc thay vị đó lại đi học
khóa Tham mưu cao cấp, một vị khác lại được chỉ định đến thay thế
cho tôi, nhưng không biết vì lý do gì cũng chưa trình diện BTL/Hạm Đội
để nhận công tác. Ông Chỉ Huy Trưởng Hải Đội động viên tôi đi thêm một
chuyến công tác. Từ cực nam của miền Nam chúng tôi “dong ruỗi” trên con
đường tiếp tế cho từng vùng để các đơn vị, các chiến hạm có đủ
nhiên liệu hoạt động trên biển. Từ An Thới, Phú Quốc chúng tôi bom
đầy cho Căn cứ Yểm Trợ Tiếp vận và các chiến hạm hoạt động trong
vùng; ghé qua Côn Sơn tiếp tục nhiệm vụ của mình và trực chỉ Vũng Tàu để vào Cát Lỡ
lấy dầu và tiếp tế cho các chiến hạm đang neo đậu tại đây.
Nhận được lịnh ra Qui Nhơn để tiếp tế cho các
chiến hạm từ Vùng I Duyên Hải trên đường xuôi nam. Tình hình chiến sự
trong đất liền thì càng lúc khó khăn cho miền Nam, tinh thần anh em dưới tàu của tôi
không có biểu hiện hoang mang hay lo sợ. Tôi vững lòng vì mọi người
trong chúng tôi hiểu lẫn nhau và đã cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn
trong một thời gian tương đối
khá dài.
Từ nhiều nguồn quân sự và dân sự tôi biết chắc rằng miền Nam
Việt Nam đang trải qua những ngày tháng đen tối, từ sai lầm chiến
lược và chiến thuật, chúng ta khó có thể đảo ngược và gìn giữ sự
nguyên vẹn của miền Nam như trước đây. Giải pháp chính trị nào
cho Việt Nam đây? Thi hành Hiệp định Paris? Đành chờ và xem!
Tôi và anh em trên tàu phải làm tròn trách
nhiệm mà mình đang gánh trên vai, tuy nhỏ nhoi nhưng chúng tôi phải làm
tốt để cuộc triệt thoái được thành công. Ngày 21/3/1975 sau khi vào
lấy dầu tối đa có thể tại Căn cứ xăng dầu của Quân vận tại Qui Nhơn,
tôi ra lệnh anh em phải cẩn thận vì tối hôm trước đó người nhái Việt
cộng toan tính đặt mìn tàu bịnh viện hạm HQ.400 nhưng may mắn anh em
phát hiện và bắt được hai người, chúng tôi ra neo ở ngoài cảng và
cho một số anh em ra phố đi chợ vì thực phẩm trên tàu đã cạn kiệt;
anh em đi chợ về cho biết thành phố gần như bỏ ngõ, chỉ lèo tèo vài
anh cảnh sát còn phụ trách lưu thông trên đường phố.

Tôi nhận được yêu cầu từ Hộ tống hạm HQ. 08
đến tiếp tế dầu; tôi được biết
Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lịnh Vùng I Duyên Hải đang trên chiến hạm
nầy. Tôi gặp anh Nguyễn Trường Yên, Hạm trưởng, anh là một trong ba
bốn anh cùng khóa 15 rất xuất sắc và đảm nhiệm chức vụ Hạm trưởng
trên các chiến hạm lớn sớm nhất của Hạm đội. Tôi lên đài chỉ huy
của chiến hạm trình diện Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, và nhận thấy ông đang mặc
jacket hải quân và trên mặt có vết sước nhẹ. Trọng tâm của ông trong
lúc nầy là rước càng nhiều càng tốt anh em binh sĩ Sư đoàn 3 Bộ binh
và hướng dẫn các đơn vị chiến hạm, chiến thuyền của vùng I về Vũng
Tàu.
Tách khỏi chiến hạm HQ. 08, thì vào lúc 1:00
chiều ngày 31 tháng 3 năm 1975, chúng tôi đón tiếp HQ. Đại tá Nguyễn
Công Hội, Tư Lịnh phó Vùng I Duyên Hải lên chiến hạm chúng tôi để chỉ
huy đơn vị trưởng các chiến đỉnh của vùng tập trung lại để cùng về
Vũng Tàu. Tôi và ông có quan hệ trong công tác, trước đây ông là Chỉ
huy trường Hải đội Tuần Duyên và tôi là Hạm trưởng một chiếc PGM
dưới quyền ông; sau nầy khi ông về vùng I thì tôi lại trình diện ông
mỗi khi công tác ở đây. Ông là người trầm tĩnh, ít nói, có kinh
nghiệm chỉ huy cao.
Đồng thời chúng tôi cũng có chở Thiếu Tướng
Nguyễn Duy Hinh và các Sĩ quan Tham mưu của ông trên chiến hạm của
chúng tôi. Mọi người đều lo lắng cho các đơn vị và binh sĩ dưới
quyền. Binh lính của Sư đoàn 3 Bộ binh có mặt trên tàu khá đông song
anh em giữ kỷ luật rất tốt.
Đính kèm là trang số 40
của Nhật Ký Tư Lệnh do Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh viết:”Tôi cùng đại
tạ Hội, tư lệnh phó Vùng I Duyên hải sang tàu dầu 542 [ đính chánh 472] (hạm trưởng trung
úy An Thuận [đính chánh đại úy])
cùng một đoàn tàu nhỏ đi về Cam Ranh.
Sau cùng thì cả đoàn tàu đã về đến Cam Ranh an
toàn. Các vị quan khách lần lượt rời chiến hạm, trả lại không gian
an bình và sinh hoạt bình thường cho chúng tôi. Trong suốt thời gian
qua vì cùng phụ giúp các vị tướng, tá chỉ huy trên tàu nên tôi chỉ
ngủ được chừng một tiếng đồng hồ/ngày. Café và trà là nguồn trợ
lực rất quý giá cho tôi, ăn uống chỉ là phụ. Ai nấy đều như “xác không hồn”.
Sáng sớm ngày 2 tháng 4 năm 75, chiến hạm được
lệnh rời Cam Ranh lên đường về Vũng Tàu để chuẩn bị vào lại Căn cứ
Yểm trợ Tiếp Vận Cát Lở lấy dầu; về đến Vũng Tàu ngày 4 tháng 4
năm 1975. Tiếp tế dầu và nước cho các chiến hạm đang neo đậu tại
Vũng Tàu, nhưng vì tình trạng kỹ thuật tàu của chúng tôi quá tệ,
nên lệnh cho chúng tôi neo tại chỗ để các cơ xưởng hạm có mặt ở đây
sửa chửa những hư hỏng kỹ thuật cho chúng tôi. Quyết định sau cùng
là phải vào Ba Son để sửa chữa vì các cơ xưởng hạm ở đây không có
các bộ phận thay thế. Anh em có thân nhân ở Saigon hoặc ở các vùng
phụ cận, và bản thân tôi, chỉ mong được về Saigon sau một chuyến công
tác dài ngày trên biển từ cực nam
đến cực bắc
duyên hải của miền Nam,
và trong giai đoạn nghiêm trọng nầy của đất nước chúng tôi cũng còn
có trách nhiệm với gia đình vợ con.
Ngày 21 tháng 4 năm
1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức trao quyền cho
cụ Trần Văn Hương, anh em chúng tôi trên tàu biết rằng miền Nam của
chúng ta đang trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn và chắc chắn không
đủ sức cầm cự được lâu.
Về đến Saigon chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi
cho anh em về nhà để mang gia đình vào sáng sớm ngày hôm sau, để số
còn lại sẽ về nhà ngay, trong đó có tôi. Tối hôm đó thì thợ Ba Son
xuống tháo ráp máy móc hư hỏng dưới tàu để đem về xưởng, cùng với
anh em còn lại, chúng tôi theo dõi tiến trình sửa chữa; tôi lên
BTL/Hạm Đội gặp sĩ quan trực để biết thêm tình hình hiện tại của
Hải Quân và của đất nước, và gọi điện thoại về nhà, báo cho gia
đình chuẩn bị sẳn sàng để ngay mai khi tôi về thì có thể rời nhà ngay. Những
quyết định gấp rút và khó khăn vô cùng cho mọi người!
Ngày hôm sau khi tôi về nhà, đang loay quay kêu
gọi người thân trong nhà chuẩn bị đi thì đã có lời kêu gọi hạ vũ
khí, đầu hàng vô điều kiện của Tổng Thống Dương Văn Minh. Tôi và vợ
tôi hy vọng vào các bạn tôi đang neo tàu buôn ngoài sông Saigon, vô ích
và không có kết quả, cố gắng vào Cảng Saigon, kết quả cũng không có
gì tốt hơn.
Mặc dầu có nhiều cố gắng nhưng chúng tôi không
thành công, thôi thì đành tự an ủi “không thành công thì cũng thành
nhân” nhưng cái giá phải trả lại quá đắt là những năm tháng tù đày
đói rách tại miền bắc, và bài học đầy máu và nước mắt mà tôi học
được là: Mất nước là mất tất cả, đừng bao giờ trông chờ vào sự bao
dung độ lượng của đối phương, dù đối phương đó là người cùng màu da,
cùng tiếng nói với mình!
Cũng trong khoảng thời gian đó, nhiều nước
thuộc địa khác không cần hy sinh hơn hai triệu con dân của mình
và mất 20 năm nội chiến để giành độc lập cho xứ sở của mình; họ
không ngu dại để “chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung
Quốc”, phát biểu của Lê Duẩn; nước Đức thống nhất không có đổ máu,
không có phân biệt đối xử quốc gia hay cộng sản, người dân Tây Đức hy
sinh tiền của để cưu mang người dân Đông Đức và cả nước cùng nhau xây
dựng đất nước giàu mạnh như ngày hôm nay, và đương kim thủ tướng Đức
là một chính trị gia xuất thân từ nửa nước Đức “hậu cộng sản”...
Vậy ai khôn hơn ai?
Vận nước đến hồi đổi thay để mọi người dân
miền Nam cùng chia sẻ
với dân miền Bắc,
cùng nhau chạm mặt chế độ cộng sản, một chế độ đàn áp có hệ thống
các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội và tập hợp hòa bình và
sẵn sàng trấn áp những ai dám kêu gọi dân chủ, tự do.
Giờ đây giới trẻ đã có ý thức rằng họ phải
bảo vệ tổ quốc, và họ đã và đang dấn thân trong việc thực thi dân
chủ và thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam, bắt đầu tiến trình thoát
khỏi chế độ cộng sản cầm quyển với bản tánh ích kỷ, vô lương. Hy
vọng đây là mở đầu cho một giai đoạn mới cho tuổi trẻ thức tỉnh và
vùng lên để lấy lại chính nghĩa cho tổ quốc.
Lê
Châu An Thuận
nhớ những ngày tháng 3 và tháng 4 năm 1975